An Tĩnh xưa (chuyên khảo lịch sử về vùng Nghệ An-HàTĩnh xưa) được Le Breton soạn thảo trong thời gian giảng dạy và làm hiệu trưởng ở trường Quốc học Vinh (Collège de Vinh, 1924-1928), thành quả xứng đáng từ những lớp tham quan dã ngoại được tổ chức thường xuyên, kết hợp với sự giúp đỡ của nhiều đồng nghiệp, học trò và đặc biệt nhất là nỗ lực nghiên cứu, tìm hiểu, tổng hợp, phân tích tư liệu của ông. Ngoài phần giới thiệu, mở đầu và kết luận, tác phẩm có hai Đề mục lớn (một số bản dịch khác gọi là Thiên); riêng Đề mục 2 có đến tám chương. Đây thực sự là một công trình đồ sộ về tư liệu; khoa học về phương pháp nghiên cứu, diễn giải, và nhất là về tâm huyết, trí tuệ, như ông đã tự dẫn câu của chính mình làm đề từ: “Hiểu tức là yêu thương; yêu thương tức là hiểu. Hai lời lẽ này dựa vào nhau, cần biết gắn lại với nhau bằng một bàn tay khỏe mạnh và khéo léo”. Khi tiếp xúc với tác phẩm này, nhiều người đã khẳng định ngay giá trị không thể chối cãi của nó.
Điều đặc biệt nữa mà tôi muốn nhấn mạnh, đó chính là “số phận” của bản dịch. Nếu như Le Vieux An-Tinh từ ba số trên Tập san BAVH đến khi được in thành sách tròn 65 năm, thì An Tĩnh xưa từ những trang dịch viết trên giấy pơ-luya (pelure) mỏng dính của ông Nguyễn Bân trong những thập niên 1970, 1980 chủ yếu dùng làm tư liệu cho bản thân và bè bạn, đến bản dịch khá đầy đủ năm 1991 được chép tay trong một cuốn vở học sinh và bản hoàn thiện năm 1997 suýt thất lạc nay được cháu gái Nguyễn Thị Phương Thảo công phu tìm lại cũng đã trải gần 50 năm, được biên tập, xuất bản khi ông đã rời cõi tạm tròn 10 năm… Tuy không phải là một dịch giả chuyên nghiệp, hành văn đôi chỗ còn thiếu trau chuốt, nhưng chất lượng của An Tĩnh xưa không hề thua kém các bản dịch đã xuất bản, nhất là đảm bảo nguyên tắc dịch thuật các công trình khoa học - chính xác, sát ý, trung thành với nguyên tác… Bởi ngoài trình độ Pháp ngữ, ông còn là một nhà Địa phương học am tường về địa lý, lịch sử, văn hóa xứ Nghệ, một người luôn sống và làm việc nghiêm cẩn, cầu thị, và hơn nữa, là một người trọn đời gắn bó, yêu quý, khát khao dâng hiến tâm sức cho mảnh đất Hồng Lĩnh - Lam Giang, quê hương thứ hai của ông.
Sống nằm đó tưởng thừa, ra hỏi vào han, sớm tối nỗi lo khôn vơi nhẹ; Chết đi mới thấy thiếu, ngày tơ đêm tưởng, tháng năm khoảng trống khó lấp đầy. Câu đối của nhà nghiên cứu văn hóa Thái Kim Đỉnh “tặng” dịch giả Nguyễn Bân trong những ngày cuối cùng trên giường bệnh như giãi bày hộ tâm trạng tôi, và chắc là cũng của nhiều người khi nhớ về một lớp tiền nhân biết đánh thức, giành lại quá khứ cho hiện tại và tương lai, sự ra đi của họ thực sự như cây cổ thụ ngã xuống để lại cả khoảng trời trống vắng…
Đánh giá nhận xét chuyên gia
“Công trình nghiên cứu của H. Le Breton mang lại sự đóng góp tích cực vào việc tìm hiểu vùng này. Quá khứ sẽ giải thích hiện tại” - Yves-C. Châtel, Phó Toàn quyền Đông Dương
“Le Vieux An-Tinh là một tuyệt tác chuyên khảo lịch sử” - Giáo sư Philippe Papin
“Đây là một tài liệu có giá trị và bổ ích cho người học, người nghiên cứu” - PGS.TS. Chương Thâu
Trích đoạn hay
Ở An Tĩnh có câu tục ngữ phổ biến: “Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần”. Ý muốn nói rằng: “Thanh Hóa dựa vào sự ưu ái của nhà vua, thì xứ Nghệ được các vị quan đại thần chiếu cố”.
Thật vậy, mãi cho đến ngày nay, Thanh Hóa vẫn là xứ hưởng được nhiều đặc ân vì tỉnh này là cái nôi của triều đại đương kim trị vì.
Nhưng An Tĩnh không vì thế mà ganh tị vì mảnh đất này đã sản sinh ra nhiều bậc đại trí thức giàu lòng độ lượng sẵn sàng che chở, và những vị đại thần này đã được ngưỡng mộ tột cùng, không gì so sánh nổi. Nghệ An được cái vinh quang là có những ngôi đền đẹp nhất nước An Nam. Một phương ngôn khác đã nhắc tới tên các ngôi đền này: Đền Cờn, đền Quả, Bạch Mã, Chiêu Trưng.
An Tĩnh không những giàu về truyền thuyết mà còn giàu cả cái vinh quang của mình nữa. Tôi có thể chắc chắn rằng không có tỉnh nào khác lại có được một vai trò lớn lao như thế trong lịch sử của quốc gia Đại Việt (tức Nam Việt), ít nhất cũng đến thế kỷ XV.
(trích Lời mở đầu)
[...]
Người An Nam rất kiêng gọi tên húy của mình. Gọi họ bằng tên húy tức là làm nhục họ. Vì thế họ giữ kín tên húy của mình mà chỉ dung tên mượn mà thôi. Ví như lấy tên con để gọi cha, lấy chức vụ, hàm tước, nghề nghiệp... để gọi tên. Gọi kẻ bề trên, kẻ ngang hàng bằng tên của họ là chửi bới họ. Vả lại, ở châu Âu, cũng có cái na ná như vậy?
Vì thế chúng ta không lấy làm lạ rằng một điều tuyệt đối cấm kỵ là không được gọi hoặc viết tên húy của một hoàng đế. Nhưng để hiểu rõ hơn điều cấm kỵ này, chúng ta cần biết rằng mỗi ông vua có ít nhất năm tên hoặc hiệu:
Chỉ hai loại tên riêng (2 và 3) mới phải kiêng kỵ. Những thí sinh trong các kỳ thi theo chế độ giáo dục truyền thống đã bị bãi bỏ ở Bắc kỳ vào năm 1915, ở Trung kỳ vào năm 1919, nhất thiết phải tránh việc đưa những tên ấy vào các bài thi của mình; nếu không họ sẽ bị trừng phạt: không được dự thi, hoặc bị bỏ tù.
(trích Chương V. Lưu vực sông Lam)